Lịch sử Lagash

Từ những dòng chữ khắc được tìm thấy ở Girsu như các trụ đá Gudea đã cho thấy Lagash là một thành phố quan trọng của người Sumer vào cuối thiên niên kỷ thứ 3 TCN. Thành phố thời điểm đó được cai trị bởi vị vua độc lập, Ur-Nanshe (thế kỷ 24 TCN) và người kế nhiệm ông đã tham gia vào những trận giao tranh với người Elam ở phía đông và các vua "Kienĝir" và Kish ở phía bắc. Một số công trình xa xưa có từ trước cuộc chinh phục của người Akkad cũng rất thú vị, đặc biệt là Bia Kền kền của Eannatum và cái bình bạc lớn của Entemena được trang trí với con vật linh thiêng của Ningirsu là Anzu: một con đại bàng đầu sư tử với đôi cánh dang ra, dang quắp lấy một con sư tử trong mỗi móng vuốt. Với cuộc chinh phục của người Akkad mà Lagash đã đánh mất nền độc lập, người cai trị hoặc ensi của Lagash trở thành một chư hầu của Sargon xứ Akkad và những người kế nhiệm ông; nhưng Lagash tiếp tục là một thành phố có nhiều tầm quan trọng và trên hết là một trung tâm phát triển nghệ thuật.

Sau khi nhà nước của Sargon sụp đổ, Lagash lại phát triển mạnh dưới các đời vua độc lập (Ensis), Ur-Bau và Gudea và có sự giao thiệp thương mại rộng rãi với nước xa xôi. Theo sử liệu về mình, Gudea đưa cây hương từ Amanus và dãy núi LibanSyria, điorit từ miền đông Saudi, đồng và vàng từ miền trung và miền nam Ả Rập, trong khi quân đội của ông đã tham gia vào các trận chiến với người Elam ở phía đông. Triều đại của ông có dấu ấn đặc trưng vì là thời đại phát triển nghệ thuật. Thậm chí một ý tưởng khá tốt về những gì trông giống như Gudea, kể từ khi ông đặt trong các đền thờ trong thành phố nhiều bức tượng hoặc tượng thần miêu tả bản thân với hiện thực sống động như thật (Tượng Gudea). Vào thời của Gudea, thủ đô của Lagash thực sự nằm ở Girsu. Vương quốc bao phủ một diện tích khoảng 1.600 km vuông (620 sq mi). Nó bao gồm 17 thành phố lớn, tám thị trấn huyện lỵ, và nhiều làng mạc (khoảng 40 được gọi theo tên). Theo một ước tính, Lagash là thành phố lớn nhất thế giới từ khoảng 2075 đến 2030 TCN.[5]

Ngay sau thời kỳ của Gudea, Lagash đã bị gộp vào nhà nước Ur III như là một trong những tỉnh hàng đầu của nó.[6] Có một số thông tin về khu vực này trong thời kỳ Cổ Babylon. Sau đó nó dường như đã mất đi tầm quan trọng thiết yếu và biến mất trong một khoảng thời gian dài cho tới khi việc xây dựng các pháo đài của nhà Seleukos được đề cập, khi nó dường như đã trở thành một phần của Vương quốc Characene của Hy Lạp.

Xung đột với Umma

Vào khoảng năm 2450 TCN, Lagash và thành phố láng giềng Umma có đánh lẫn nhau sau một cuộc tranh chấp biên giới. Theo như mô tả trong Bia Kền kền thì vị vua hiện tại của Lagash là Eannatum, lấy cảm hứng từ thần bảo trợ của thành phố Ningirsu, bắt đầu mang quân đánh bại thành phố gần đó. Những chi tiết ban đầu của cuộc chiến vẫn chưa rõ ràng, nhưng tấm bia có thể miêu tả một vài chi tiết mơ hồ về sự kiện này. Theo những hình khắc của tấm bia thì khi hai bên gặp nhau trên chiến trường, Eannatum đã bước xuống cỗ chiến xa của mình và dẫn đầu hàng quân tiến lên. Sau khi hạ thấp những ngọn giáo, quân Lagash liền xông vào hàng ngũ quân Umma theo đội hình Phalanx dày đặc. Sau một cuộc đụng độ ngắn ngủi, Eannatum và quân của ông đã giành được chiến thắng trước đội quân của Umma. Dù bị tên bắn trúng mắt, vua của Lagash vẫn còn sống để tận hưởng chiến thắng của quân mình. Cuộc chiến này là một trong những trận đánh có tổ chức sớm nhất được biết đến với giới học giả và sử gia.[7]

Các triều đại của Lagash

Những triều đại này không được tìm thấy trên bảng danh sách vua Sumer dù một mảnh vỡ bổ sung rất rời rạc đã được tìm thấy tại Sumer, gọi là những người cai trị Lagash.[8] Nó còn nhớ như in sau trận lụt nhân loại đã gặp khó khăn trong việc trồng thực phẩm, bị lệ thuộc hoàn toàn vào nước mưa; ngoài ra còn có liên quan đến kỹ thuật thủy lợi và canh tác lúa mạch được truyền đạt bởi các vị thần. Vào cuối bảng danh sách là tuyên bố "viết trong trường học", cho thấy đây là một loại trường đào tạo người sao chép bản thảo. Một vài trong số những cái tên từ các nhà lãnh đạo Lagash liệt kê dưới đây có thể được thực hiện bao gồm Ur-Nanshe, "Ane-tum", En-entar-zid, Ur-Ningirsu, Ur-Bau, và Gudea.

Triều đại thứ nhất của Lagash

VuaTriều đại đề xuấtChú thích
Enhengal
Lugal-sha-engur (Lugal-Suggur)Giáo sĩ cấp cao hay Ensi
Ur-Nanshe (Ur-nina)khoảng 2500 TCNVua
Akurgal
Eannatumkhoảng thế kỷ 25 TCNCháu trai của Ur-Nanshe, vị vua đã chiếm được Sumer từ Enshagkushana của Uruk và đẩy lùi quân đội của Kish, ElamMari
En-anna-tum Ikhoảng thế kỷ 25 TCNEm trai Eanatum, giáo sĩ cấp cao, Ur-Luma và Illi của Umma, cũng như Kug-Bau của Kish giành được độc lập từ ông.
Entemenakhoảng thế kỷ 25 TCNCon trai của Enanatum I, vị vua cùng thời với Lugal-ure (hay Lugalkinishedudu) của Uruk và đã đánh bại Illi của Umma
Enanatum II
Enentarzid
Lugalanda
Urukaginakhoảng 2300 TCNLà vị vua bị Lugal-zage-si xứ Uruk đánh bại, đã đưa ra lời tuyên bố cải cách xã hội.

Triều đại thứ hai của Lagash

VuaTriều đại đề xuất (niên biểu sơ lược)Triều đại đề xuất (niên biểu trung kỳ)Chú thích
Lugalushumgal
Puzer-Mama
Ur-Utu
Ur-Mama
Lu-Baba
Lugula
Kaku or Kakug
Ur-Bau or Ur-baba2093 TCN – 2080 TCN2157 TCN – 2144 TCN
Gudea2080 TCN – 2060 TCN2144 TCN – 2124 TCNCon rể của Ur-baba
Ur-Ningirsu2060 TCN – 2055 TCN2124 TCN – 2119 TCNCon trai của Gudea
Pirigme hay Ugme2055 TCN – 2053 TCN2119 TCN – 2117 TCNCháu trai của Gudea
Ur-gar2053 TCN – 2049 TCN2117 TCN – 2113 TCN
Nammahani2049 TCN – 2046 TCN2113 TCN – 2110 TCNCháu trai của Kaku, bị Ur-Namma đánh bại